Thứ Tư, 1 tháng 7, 2009

Công nhi vong tư

Mấy hôm liền không thơ ca hò vè cũng bắt đầu thấy nhàm. Tính kiếm một bài thơ ngắn post lên cốt thay đổi cảm xúc nhưng hiềm nỗi cũng lâu không cập nhật nên những tác giả cũ thì đã nguội mà tác giả mới thì chưa gặp cái ngẫu nhĩ nào. Bèn vào lục cuốn "Hương sắc trong vườn văn" của NHL xem hú hoạ có bài nào thích thì post lên. Nhưng trông thấy thì lại nhớ đến ý định trích đoạn cụ Phan Bội Châu khóc vợ từ ngày trước bèn chuyển sang đăng bài này. Có hai bài văn về tình cảm gia đình mà tôi thấy xúc cảm thực sự mỗi lần đọc lại thì đều liên quan đến cụ Nguyễn Hiến Lê: một là bài viết "Làm con phải nhớ" của chính cụ viết và bài còn lại thì là bài văn của cụ Phan khóc vợ mà NHL trích trong cuốn HSTVV. Hôm nay tìm được nguyên đoạn trên mạng nên post lại ở đây chia sẻ cùng mọi người.

Nói chuyện này thì liên tưởng ngay đến chuyện làm chính trị. Chưa đến trăm năm nhưng nghĩ chuyện chính trị thời xưa với thời nay thật là khác nhau. Dư luận vụ LCD độ này cũng đã đến hồi vãn và phần lớn đang chuyển sang đả kích nhau. Trước sau tôi vẫn cho rằng tranh luận là để nói đúng sai chứ mạt sát thì không thuộc lĩnh vực của tri thức.
-------------

“Nầy con,

“Các con ơi! Cha mầy e chết rày mai, có lẽ với mẹ mày không được một phen gặp nhau nữa! Nhưng nếu trời thương ta, cho hai ta đồng thời gặp nhau ở suối vàng cũng vui thú biết chừng nào.

“Nhưng đau đớn quá! Mẹ mầy e chết trước ta. Ta hiện giờ nếu không chép sơ những việc đời Mẹ mầy cho các con nghe, thời các con rồi đây không biết rõ Mẹ mầy là người thế nào, có lẽ bảo Mẹ ta cũng như người thường thả cả.

“Than ôi! Ta với Mẹ mầy, vợ chồng “thật” gần năm mươi năm, mà quan quả “giả” gần bốn mươi năm [quan: vợ chết, quả: chồng chết]. Khi sống chẳng mấy hồi tương tụ; mà đến khi chết lại chỉ tin tức nghe hơi! Chúng mầy làm con người, đã biết nỗi đau đớn của Cha mầy với Mẹ mầy, chắc lòng mấy con thế nào cũng an thích được.

“Bây giờ ta nhơn lúc sắp sửa chết, mà chưa chết, đem lịch sử Mẹ mầy nói với mầy.

“Mầy nên biết, nếu không có Mẹ mầy, thời chí của Cha mầy đã hư hỏng những bao giờ kia.

“Cha ta với Tiên nghiêm [cha] của Mẹ mầy xưa, đều là nho cũ rất nghiêm giữ đạo đức xưa. Mẹ mầy lớn hơn ta một tuổi. Hai ông đính thông gia với nhau từ khi con còn nên một. Tới năm Mẹ mầy hai mươi ba tuổi [tuổi ta, tức 1888], về làm dâu nhà ta. Lúc ấy, Mẹ ta bỏ ta đã tám năm, trong nhà duy có cha già với em gái bé. Ta vì sinh nhai bằng nghề dạy trẻ, luôn năm ngồi ở quán phương xa, cái gánh sớm chiều gạo nước gởi vào trên vai Mẹ mầy. Cha ta đối với con dâu rất nghiêm thiết, nhưng chẳng bao giờ có sắc giận với Mẹ mầy. Cha ta hưởng thọ được bảy mươi tuổi, nhưng bệnh nặng từ ngày sáu mươi. Liên miên trong khoảng mười năm, những công việc thuốc thang hầu hạ bên giường bệnh, cho đến các việc khó nhọc nặng nề mà người ta không thể làm, thảy thảy một tay Mẹ mầy gánh cả. Kể việc hiếu về thờ ông gia, như Mẹ mầy là một việc hiếm có vậy.

“Trước lúc cha ta lâm chung [1900], ước một phút đồng hồ, gọi Mẹ mầy bồng mầy tới cạnh giường nằm, chúc ta rằng: “Ta chết rồi, mầy phải hết sức dạy cháu ta, và hết sức thương vợ mầy. Vợ mầy thờ ta rất hiếu, chắc trời cũng làm phúc cho nó.” Xem lời nói lâm chung của Cha ta như thế, cũng đủ biết nhân cách Mẹ mầy rồi.

“Năm Cha ta sáu mươi sáu tuổi [1896], còn hiếm cháu trai, vì ta là con độc đinh [con trai duy nhất], nên cha ta cũng khát cháu lắm. Mẹ mầy muốn được chóng sinh trai cho vừa lòng Cha, nên gấp vì ta cưới thứ mẫu mầy, chẳng bao lâu mà em mầy sinh. Trong lúc thằng Cu mới ra đời, Mẹ mầy gánh vác việc ôm ấp đùm bọc hơn một tháng. Cha ta được thấy cháu đầu hoan hỉ quá chừng. Thường nói với ta rằng: “Ta chỉ còn một việc chết chưa nhắm mắt, là mầy chưa trả cái nợ khoa danh mà thôi”.[5] Mẹ mầy nhân đó càng ân đức thứ mẫu mầy, thân yêu nhau hơn chị em ruột.

“Kể đức nhân về ân ái với người phận em như Mẹ mầy cũng ít có.

“Cứ hai chuyện như trên, bảo Mẹ mầy là Mẹ hiền về thời cựu chắc không quá đáng. Nhưng mà bắt buộc cho ta phải trọn đời nhớ luôn, thời lại vì có một việc: Nguyên lai nhà ta chỉ có bốn tấm phên tre suông, chẳng bao giờ chứa gạo tới hai ngày. Nhưng vì trời cho tính quái đặc: thích khoản khuếch [khoản đãi rộng rãi], hay làm ân. Hễ trong túi đựng được đồng tiền, thấy khách hỏi tức khắc cho ngay. Thường tới khi từ trường quán về, ta tất mang luôn khách về nhà, khách hoặc năm, sáu người, có khi mười người chẳng hạn, nhưng chiều hôm sớm mai, thiếu những gì tất hỏi Mẹ mầy. Mẹ mầy có gì đâu! Chỉ dựa vào một triêng [gánh] hai thúng, từ mai tới hôm [từ sáng tới tối] mà hễ nghe chồng đòi gì thời có nấy. Bổng dạy học của ta tuy có nhiều, nhưng chưa một đồng xu nào là tay Mẹ mầy được xài phí. Khổ cực mấy nhưng không sắc buồn; khó nhọc mấy nhưng không tiếng giận. Từ năm ta ba mươi sáu tuổi [1902], cho tới ngày xuất dương, những công cuộc kinh dinh việc nước, Mẹ mầy ngầm biết thảy, nhưng chưa từng hé răng một lời. Duy có một ngày kia, ta tình cờ ngồi một mình, Mẹ mầy ngồi dựa cột, kế một bên ta nói: “Thầy chắc toan bắt cọp đó mà? Cọp chưa thấy bắt mà người ta đã biết nhiều sao thế?” Mẹ mầy tuy có nói câu ấy, mà lúc đó ta làm ngơ, ta thiệt dở quá!

“Bây giờ nhắc lại trước khi ta xuất dương, khoảng hơn mười năm. Nghèo đói mà bạn bè nhiều; cùng khốn mà chí khí vững, thiệt một phần nửa là nhờ ân Mẹ mầy.

“Tới ngày ta bị bắt về nước, Mẹ mầy được gặp ta một lần ở thành tỉnh Nghệ, hơn nửa tiếng đồng hồ chỉ có một câu nói rằng: “Vợ chồng ly biệt nhau hơn hai mươi năm, nay được một lần giáp mặt Thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi, từ đây trở về sau, chỉ trông mong Thầy giữ được lòng Thầy như xưa, Thầy làm những việc gì mặc Thầy, Thầy không phiền nghĩ tới vợ con.”

“Hỡi ôi! Câu nói ấy ấy bây giờ còn phảng phất bên tai ta, mà té ra ủ dài năm tháng, chẳng một việc gì làm, chốc chẵn mười năm.

“Phỏng khiến Mẹ mầy mà chết trước ta, thời trách nhiệm của ta e còn nặng mãi mãi. Suối vàng quạnh cách, biết lối nào thăm; đầu bạc trăm năm, còn lời thề cũ. Mẹ mầy thật chẳng phụ ta, ta phụ Mẹ mầy!

“Công nhi vong tư” chắc Mẹ mầy cũng lượng thứ cho ta chứ “. (1936) (6)

-----------------

1. Theo tục lệ ngày xưa, vợ cả (chánh thất) cưới vợ nhỏ (thứ thất) cho chồng.
2. Tôn Quang Phiệt, “Một vài kỷ niệm về Phan Bội Châu”, đăng trong Ông già Bến Ngự, hồi ký của một nhóm tác giả, Nxb. Thuận Hóa, Huế 1982, tr. 53.
3. Các câu Phan Bội Châu an ủi và khóc vợ, trích từ Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tt. 442-444.
4. Tôn Quang Phiệt, bài đã dẫn, tt. 53-55.
5. Lúc nầy Phan Bội Châu chưa đậu cử nhân. Năm 1900 (canh tý), ông đậu giải nguyên (đậu đầu) kỳ thi Hương trường thi Nghệ An vào tháng 7 thì tháng 9 cụ Phan Văn Phổ từ trần.
6. “Công nhi vong tư” nghĩa là lo việc chung mà quên việc riêng.

1 nhận xét:

HY nói...

Ối ôi, mình khâm phục cụ bà Phan quá, đã đảm đang việc nhà, lại còn không ghen tuông, và nhất là lại còn nhất mực ủng hộ chồng lo việc thiên hạ như thế... Cụ Phan thấy có lỗi với vợ cũng phải.